Thứ Năm, 22 tháng 9, 2016

THƠ ĐƯỜNG LUẬT


  • BÀI I 

    THƠ TỨ TUYỆT 

    Thơ tứ tuyệt đã có từ lâu, trước khi có thơ thất ngôn và ngũ ngôn bát cú. Đầu tiên, thơ tứ tuyệt có nghĩa khác với nghĩa hiện tại: “tứ” là bốn và “tuyệt” có nghĩa là tuyệt diệu. Bài thơ chỉ có 4 câu mà diễn tả đầy đủ ý nghĩa của tác giả muốn trình bày nên người ta mới gọi 4 câu thơ đó là tứ tuyệt. 
    Tuy nhiên, sau khi có thơ thất ngôn và ngũ ngôn bát cú (luật thi) vào đời nhà Đường, thì thơ tứ tuyệt lại phải được làm theo quy tắc về niêm, vần, luật, đối của lối thơ thất ngôn hay ngũ ngôn bát cú. Vì vậy, sau nầy người ta giải thích chữ “tuyệt” là ngắt hay dứt. Nghĩa là thơ tứ tuyệt là do người ta làm theo cách ngắt lấy 4 câu trong bài bát cú để làm ra bài tứ tuyệt. Do đó niêm, vần, luật, đối của bài tứ tuyệt phải tùy theo cách ngắt từ bài bát cú mà thành. 
    Thơ tứ tuyệt có 2 thể là luật trắc vần bằng và luật bằng vần bằng. 
    Mỗi thể đều có một Bảng Luật coi như "công thức" căn bản mà người làm thơ phải tuân theo. 

    1. TỨ TUYỆT LUẬT TRẮC VẦN BẰNG (không đối) 

    Sau đây là Bảng Luật Thơ Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng: 

    BẢNG LUẬT: 

    T - T - B - B - T - T - B (vần) 
    B - B - T - T - T - B - B (vần) 
    B - B - T - T - B - B - T 
    T - T - B - B - T - T - B (vần) 

    Ghi chú: Đây là bản chính luật (sẽ có bảng luật bất luận sau). Mới đầu chúng ta nên cố gắng giữ theo chính luật để âm điệu bài thơ được hay. Tuy có bị gò bó nhưng sau nầy sẽ dễ cho chúng ta hơn (trước khó sau dễ). 
    Các chữ cuối của các câu 1-2-4 bắt buộc phải cùng vần với nhau. 

    Bài thơ thí dụ để minh họa: 

    1. 
    Thuở ấy tuy còn tuổi ấu thơ 
    Mà sao vẫn nhớ đến bây giờ 
    Xuân về nũng nịu đòi mua pháo 
    Để đón giao thừa thỏa ước mơ 

    Hoàng Thứ Lang 


    2. 
    Dõi mắt tìm ai tận cuối trời 
    Thu về chiếc lá ngậm ngùi rơi 
    Cay cay giọt lệ sầu chan chứa 
    Mộng ước tình ta đã rã rời 

    Hoàng Thứ Lang 


    3. 
    Một nửa vầng trăng rụng xuống cầu 
    Đôi mình cách trở bởi vì đâu 
    Canh tàn khắc lụn hồn tê tái 
    Đối bóng đèn khuya nuốt lệ sầu 

    Hoàng Thứ Lang 


    2. TỨ TUYỆT LUẬT BẰNG VẦN BẰNG (không đối) 

    Sau đây là Bảng Luật Thơ Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng: 

    BẢNG LUẬT: 

    B - B - T - T - T - B - B (vần) 
    T - T - B - B - T - T - B (vần) 
    T - T - B - B - B - T - T 
    B - B - T - T - T - B - B (vần) 


    Ghi chú: Đây là bản chính luật (sẽ có bảng luật bất luận sau). Mới đầu chúng ta nên cố gắng giữ theo chính luật để âm điệu bài thơ được hay. Tuy có bị gò bó nhưng sau nầy sẽ dễ cho chúng ta hơn (trước khó sau dễ). 
    Các chữ cuối của các câu 1-2-4 bắt buộc phải cùng vần với nhau. 

    Bài thơ thí dụ để minh họa: 

    1. 
    Đôi mình cách biển lại ngăn sông 
    Dõi mắt tìm nhau nhỏ lệ hồng 
    Ngắm ánh trăng thề thương kỷ niệm 
    Đêm trường thổn thức nhớ mênh mông 

    Hoàng Thứ Lang 


    2. 
    Đêm nghe tiếng gió nhớ miên man 
    Mộng ước tình ta đã lụn tàn 
    Thánh thót hiên ngoài mưa rả rích 
    Mi buồn lệ ứa mãi không tan 

    Hoàng Thứ Lang 


    3. 
    Rừng phong nhuộm tím cả khung trời 
    Lá úa lìa cành gió cuốn rơi 
    Lối cũ đường xưa em đếm bước 
    Miên man kỷ niệm đã xa vời 

    Hoàng Thứ Lang 
    Sau đây là Luật về Điệu thơ: 

    Điệu thơ là cách xếp đặt các tiếng trong câu thơ sao cho êm tai dễ đọc để bài thơ có âm hưởng du dương trầm bổng như nhạc điệu.

    Điệu thơ gồm có 3 phần chính như sau: 

    1. Nhịp điệu: thơ ĐL nhịp chẵn, ngắt nhịp 2 hoặc 4 tiếng trọn nghĩa. 

    2. Âm điệu: nên làm theo chính luật để bài thơ có âm điệu êm tai trầm bổng. 

    3. Vần điệu: nên gieo vần ở cuối các câu 1-2-4-6-8 xen kẻ tiếng không có dấu và tiếng có dấu huyền để bài thơ khi đọc lên nghe du dương trầm bổng như điệu nhạc. Ngoài ra chúng ta nên cố gắng gieo vần chính vận. Sau nầy khi "nhuyễn" rồi chúng ta có thể theo thông vận và theo luật bất luận. Muốn cho bài thơ có âm điệu hay thì tiếng thứ 4 và tiếng thứ 7 của những câu luật trắc vần bằng không nên dùng trùng một thanh bằng. Nghĩa là nếu tiếng thứ 4 không dấu thì tiếng thứ 7 phải dấu huyền và ngược lại. Tuy nhiên nếu không tìm được từ nào khác có ý nghĩa hay hơn thì chúng ta dùng trùng cũng được mà vẫn không bị sai luật thơ. 

    Hoàng Thứ Lang

  • tieuhongphong
     
    February 12th 2011, 1:17 am
  • BÀI II 

    THƠ TỨ TUYỆT VẦN BẰNG - 2 VẦN 

    Thơ Tứ Tuyệt Vần Bằng 2 vần cũng có hai thể: 
    - Luật Trắc Vần Bằng. 
    - Luật Bằng Vần Bằng. 

    Đầu tiên, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng - 2 vần. 

    Sau đây là Bảng Luật Thơ Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng - 2 vần: 

    1. THƠ TỨ TUYỆT LUẬT TRẮC VẦN BẰNG - 2 VẦN (KHÔNG ĐỐI) 

    BẢNG LUẬT: 


    T - T - B - B - B - T - T 
    B - B - T - T - T - B - B (vần) 
    B - B - T - T - B - B - T 
    T - T - B - B - T - T - B (vần) 


    Ghi chú: Đây là bản chính luật (sẽ có bảng luật bất luận sau). Mới đầu chúng ta nên cố gắng giữ theo chính luật để âm điệu bài thơ được hay. Tuy có bị gò bó nhưng sau nầy sẽ dễ cho chúng ta hơn. 
    Các tiếng cuối của các câu 2 và 4 bắt buộc phải cùng vần với nhau. 

    Trước khi đi vào chi tiết của bài Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng - 2 vần, chúng ta thử cùng nhau ngắt bài thơ Thất Ngôn Bát Cú ra thành nhiều bài Tứ Tuyệt để "nghiên cứu" và phân tích. 

    Bài thơ Thất Ngôn Bát Cú có thể ngắt thành 4 bài thơ Tứ Tuyệt theo 4 cách như sau: 
    - Bài 1: 4 câu đầu (1-4). 
    - Bài 2: 4 câu cuối (5-8 ). 
    - Bài 3: 4 câu giữa (3-6). 
    - Bài 4: 2 câu đầu (1-2) và 2 câu cuối (7-8 ). 

    Thí dụ: bài thơ sau đây: 

    THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ 

    Tạo hóa gây chi cuộc hí trường 
    Đến nay thắm thoát mấy tinh sương 
    Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo 
    Nền cũ lâu đài bóng tịch dương 
    Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt 
    Nước còn cau mặt với tang thương 
    Ngàn xưa gương cũ soi kim cổ 
    Cảnh đấy người đây luống đoạn trường 

    Bà Huyện Thanh Quan 


    Ngắt ra: 

    1. 
    Tạo hóa gây chi cuộc hí trường 
    Đến nay thắm thoát mấy tinh sương 
    Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo 
    Nền cũ lâu đài bóng tịch dương 

    2. 
    Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt 
    Nước còn cau mặt với tang thương 
    Ngàn xưa gương cũ soi kim cổ 
    Cảnh đấy người đây luống đoạn trường 

    3. 
    Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo 
    Nền cũ lâu đài bóng tịch dương 
    Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt 
    Nước còn cau mặt với tang thương 

    4. 
    Tạo hóa gây chi cuộc hí trường 
    Đến nay thắm thoát mấy tinh sương 
    Ngàn xưa gương cũ soi kim cổ 
    Cảnh đấy người đây luống đoạn trường 

    Nhận xét: 

    Bài 1: Tứ Tuyệt 3 vần bằng. 
    Bài 2: Tứ Tuyệt 2 vần bằng. 
    Bài 3: Tứ Tuyệt 2 vần bằng. 
    Bài 4: Tứ Tuyệt 3 vần bằng. 

    Như vậy bài thơ Tứ Tuyệt có loại 3 vần và có loại 2 vần. 

    Phân tích kỹ hơn, chúng ta nhận thấy một bài thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật là do hai bài thơ Tứ Tuyệt ghép lại mà thành, 4 câu đầu là Tứ Tuyệt 3 vần, 4 câu sau là Tứ Tuyệt 2 vần. Điểm đặc biệt đáng lưu ý là 4 câu giữa (3-4-5-6) đối nhau từng cặp một (câu 3-4 đối nhau, câu 5-6 đối nhau) theo phép đối thơ loại 7 chữ (còn gọi là đối ngẫu). 
    Nếu chỉ làm thơ Tứ Tuyệt thường thì chúng ta không cần làm có đối. Nếu làm thơ Thất Ngôn Bát Cú thì bắt buộc phải có đối như đã nói trên. 

    Dừng lại ở thơ Tứ Tuyệt, chúng ta có thể làm nhiều bài thơ Tứ Tuyệt cùng diễn tả chung một ý (một nội dung) gọi là Tứ Tuyệt Trường Thiên, dài bao nhiêu cũng được, nhưng nên ngắt ra từng đoạn, mỗi đoạn 4 câu. Muốn làm loại 3 vần cũng được (như bài thơ Hai Sắc Hoa Ti-gôn của T.T.Kh.). Muốn làm loại 2 vần cũng được (như bài thơ Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím của Kiên Giang Hà Huy Hà). Muốn làm lẫn lộn (mixed) vừa 3 vần vừa 2 vần cũng được. 

    Bây giờ trở lại ý chính của bài Tứ Tuyệt 2 vần bằng. Vì chưa làm thơ Thất Ngôn Bát Cú nên chúng ta chỉ làm thơ Tứ Tuyệt không có đối (tương tự như loại 3 vần mà chúng ta đã làm ở bài 1). 

    Vậy chúng ta cùng nhau bắt đầu làm bài thực hành 

    BẢNG LUẬT: 


    T - T - B - B - B - T - T 
    B - B - T - T - T - B - B (vần) 
    B - B - T - T - B - B - T 
    T - T - B - B - T - T - B (vần) 


    Bài thơ thí dụ để minh họa: 

    1. 
    Xác pháo còn vương màu mực tím 
    Thư tình vẫn thắm chữ yêu thương 
    Nhưng ai lại nỡ quên thề ước 
    Nước mắt nào vơi nỗi đoạn trường 

    Hoàng Thứ Lang 


    2. 
    Đọc áng thơ sầu sa nước mắt 
    Nghe lời giã biệt giọt châu rơi 
    Trời cao nỡ đoạn tình đôi lứa 
    Kẻ nhớ người thương khổ cả đời 

    Hoàng Thứ Lang 


    3. 
    Yến phượng lìa đàn ai oán thảm 
    Uyên ương lẻ bạn ngẩn ngơ sầu 
    Đôi ta cách trở ngàn sông núi 
    Ngắm mảnh trăng tàn lệ thấm bâu 

    Hoàng Thứ Lang 


    4. 
    Nếu chẳng cùng em chung lối mộng 
    Anh vào cửa Phật nguyện tu hành 
    Chuông chiều mõ sớm quên tình lụy 
    Gởi lại am thiền mái tóc xanh 

    Hoàng Thứ Lang 


    2. TỨ TUYỆT LUẬT BẰNG VẦN BẰNG - 2 VẦN (KHÔNG ĐỐI) 

    BẢNG LUẬT: 

    B - B - T - T - B - B - T 
    T - T - B - B - T - T - B (vần) 
    T - T - B - B - B - T - T 
    B - B - T - T - T - B - B (vần) 


    Ghi chú: Đây là bản chính luật (sẽ có bảng luật bất luận sau). Mới đầu chúng ta nên cố gắng giữ theo chính luật để âm điệu bài thơ được hay. Tuy có bị gò bó nhưng sau nầy sẽ dễ cho chúng ta hơn. 
    Các tiếng cuối của các câu 2 và 4 bắt buộc phải cùng vần với nhau. 


    Bài thơ thí dụ để minh họa: 

    1. 
    Hè về đỏ thắm màu hoa phượng 
    Ánh mắt buồn tênh buổi bãi trường 
    Gạt lệ chia tay người mỗi ngã 
    Âm thầm cố nén giọt sầu thương 

    Hoàng Thứ Lang 


    2. 
    Trên sông khói sóng buồn hiu hắt 
    Dõi mắt phương trời nhớ cố hương 
    Trắng xóa màn sương trời chớm lạnh 
    Thương ai khắc khoải đoạn can trường 

    Hoàng Thứ Lang

Thứ Hai, 19 tháng 9, 2016

LUẬT THƠ LỤC BÁT

LUẬT THƠ LỤC BÁT



 Trần Mỹ Giống sưu tầm và biên soạn


Tác giả Trần Mỹ Giống
 
          1 - VẦN TIẾNG VIỆT: 
          Vần là yêu cầu tối quan trọng đối với thơ lục bát nên cần nắm sơ qua về “vần” tiếng Việt.

          + Tiếng việt có các vần sau: 



          + Vần tiếng Việt bắt đầu bằng các nguyên âm, là nguyên âm hoặc nguyên âm ghép với các phụ âm đơn hoặc phụ âm kép.

          Ví dụ:  
          Từ TA có vần là A là nguyên âm A.
          Từ THAN có vần là AN là nguyên âm A ghép với phụ âm đơn N.
          Từ THANH có vần là ANH là nguyên âm A ghép với phụ âm kép NH.

          + Vần tiếng Việt nếu có hai nguyên âm đứng đầu thì tính cả hai nguyên âm đó.

          Ví dụ:
          Từ TOANH có vần là OANH.
          Tuy nhiên cũng có trường hợp lại chỉ tính từ nguyên âm thứ hai. Việc xác định vần trong trường hợp này nên tra cứu bảng thống kê vần trên đây để tham khảo. Ví dụ:
          Từ “quện” có vần là “ên” chứ không phải “uên” vì trong bảng tra vần không có vần “uên”.
          Từ “giang” có vần là “ang” chứ không phải “iang” vì trong bảng tra vần không có vần “iang”.

          2- CÁC LOẠI VẦN TRONG THƠ LỤC BÁT:

          - Một cặp thơ lục bát gồm hai câu: câu đầu 6 từ, câu hai 8 từ.
          - Thơ lục bát có các loại vần sau:
          Mỗi vần có hai dạng là VẦN BẰNG và VẦN TRẮC tùy thuộc vào các thanh (còn gọi là dấu) kèm theo nó. Ví dụ: vần “an” có “an”, “àn” là vần bằng, “án”, “ản”, “ãn”, “ạn” là vần trắc.

          + Vần bằng: là vần không có thanh và vần có thanh huyền (tức dấu huyền). Ví dụ:
                   “Trăm năm trong cõi người ta
          Chữ tài chữ mệnh khéo  ghét nhau
thì từ “ta”, “nhau” có vần không thanh (không dấu). Còn từ “là” có vần có thanh huyền (dấu huyền).
          Vần bằng trong thơ lục bát: Từ thứ 6 câu lục và từ thứ 8 câu bát thường là vần bằng. Vần được nối tiếp từ vần chân câu lục sang vần lưng (tức vần yêu) của câu bát. Vần chân câu bát lại nối tiếp hiệp vần với vần chân câu lục tiếp sau...
          Ví dụ:
Nhằm ngày mồng Tám tháng ba
Chị em bao hết trai già trai non
          Trai già nhấp chén rượu ngon
Tưng bừng dậm dật như còn... trai           Chị em ngẩn ngẩn ngơ ngơ
Hỏi... cái vật vờ còn... vật được chăng?
                                          (Trai già – Thơ vui Trần Mỹ Giống)

          + Vần trắc: là các vần có một trong các thanh: sắc, hỏi, ngã, nặng.
          Ví dụ:
                   Tò vò mà nuôi con nhện
          Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi
          Các từ “nhện” và “quện” mang vần trắc. Trường hợp này rất ít khi dùng. Nếu sử dụng thì bao giờ từ thứ 6 của câu lục và câu bát cũng đều phải dùng thanh trắc.

          + Vần chân: là vần ở cuối câu lục và cuối câu bát.
          Ví dụ:
                   Mải mê đuổi bóng bắt hình
           Tóc sương chợt ngộ ra mình ngu ngơ.
                                      (Ngu ngơ – Trần Mỹ Giống)
          Thì vần “inh” trong từ “hình” ở câu lục, vần “ơ” trong từ “ngơ” ở câu bát là các vần chân.

          + Vần chính và vần phụ: Vần gieo ở câu trước là vần chính, vần gieo ở câu sau là vần phụ. Nếu vần câu sau cùng vần với vần câu trước thì cũng là vần chính.

          + Vần yêu: Là vần ở giữa câu bát, thường là vần ở từ thứ 6, nếu vần rơi vào từ thứ 4 thì từ thứ 6 phải chuyển ngược thanh với từ thứ 4.
          Ví dụ:
                   Yêu em anh nắm cổ tay
          Anh hỏi câu này có lấy anh không.

          + Điệp vận: Vần tiếp sau giống hệt vần trước.

          + Phong yêu (lưng ong): Trong một câu mà vần lưng và vần chân đều cùng một vần thì gọi là phong yêu. Cần tránh phong yêu vì đọc lên nghe mất âm điệu, không hay.
          Ví dụ:
                   Cả đêm thao thức bồn chồn
          Râm ran tiếng mõ dập dồn đầu thôn.

          + Lạc vận: Là vần chân câu lục sang vần lưng câu bát, vần chân câu bát sang vần chân câu lục tiếp theo lại không cùng vần, đọc nghe mất âm điệu.
          Ví dụ:
                   Mang danh kẻ sĩ Bắc 
          Lại chui vỏ ốc, lại chuồn đi đâu.

          + Vần thông và lân vận (vần ép): Các vần nối tiếp nhau phải cùng vần (vần chính), nếu vần tiếp theo khác hẳn vần chính thì lạc vận, nếu gần giống vần chính thì gọi là lân vận, nếu vần đọc lên nghe na ná vần chính thì gọi là thông vận (vần phụ).
          Ví dụ:
                   Lù lù ngồi giữa công đường
          Ra oai có vẻ ông hoàng ta đây.

          3 – LUẬT BẰNG TRẮC TRONG THƠ LỤC BÁT:
  
         A - Mô hình:

Các từ số:   1        2        3        4        5        6        7        8
Câu lục 1:   +       B       +        T       +        B
Câu lục 2:   +       T       T        +       +        B
Câu bát 1:   +       B       +        T       +        B       +        B
Câu bát 2:   +       T       +        B       +        T       +        B 
 
Ký hiệu: B là thanh bằng, T là thanh trắc, + là tự do.

          B – Luật bằng trắc trong thơ lục bát:

          - Các từ 2, 4, 6, 8 phải luôn đúng luật bằng trắc (xem mô hình trên).
          - Các từ 2, 4 câu lục phải niêm với các từ 2, 4 câu bát.
          - Từ thứ 2 câu lục và câu bát phải là thanh bằng. Trường hợp bố trí từ thứ 2 câu lục là thanh trắc thì phải đưa về dạng tiểu đối. Tức là chia câu lục làm 2 về, mỗi vế 3 từ, đối nhau. Từ thứ 2, 3 phải là thanh trắc, từ thứ 6 phải là thanh bằng (như mô hình câu lục 2). Ví dụ:
                   Đi vạn dặm, viết nghìn trang
          Khơi trong gạn đục vẻ vang một đời.
          Chú ý: Từ số 5 câu lục nên dùng thanh bằng để đảm bảo đối cho cân, trường hợp hãn hữu mới dùng thanh trắc. Ví dụ: “Khi tựa gối, khi cúi đầu”... Nếu làm thơ nghệ thuật quyết không dùng trường hợp hãn hữu này.          - Từ thứ 4 câu lục và câu bát phải là thanh trắc. Để câu thơ cân đối thì từ thứ 4 phải là thanh trắc (để gánh hai thanh bằng ở từ thứ 2 và 6). Nếu ở câu bát đã gieo vần lưng vào từ thứ 4 là thanh bằng thì từ thứ 6 phải dùng thanh trắc.
          - Muốn câu thơ có nhạc thì ở câu bát phải bố trí từ thứ 6 thanh không (không dấu) và từ thứ 8 thanh huyền hoặc ngược lại. Nếu bố trí cả hai từ này cùng một thanh huyền (hoặc cùng thanh không) thì câu thơ đọc lên mất tính nhạc. Ví dụ:
          Hỏi thăm cô ấy có chồng chưa nào?

          4 – HỌA THƠ LỤC BÁT:

          Khi họa thơ lục bát cần tuân thủ nghiêm yêu cầu: Từ thứ 5, 7 ở câu bát và từ thứ 5 câu lục không được trùng với bài xướng.
          Khi họa nguyên vận thơ lục bát phải dùng đúng vần (cả vần chân và vần lưng) với bài xướng. Nhưng cũng có thể chỉ họa đúng vần chân cho dễ hơn...

          5 – TẬP KIỀU VÀ LẨY KIỀU:

          - Tập Kiều là lấy nguyên văn câu lục và câu bát ghép lại với nhau thành một bài thơ lục bát hoàn chỉnh. Chú ý: không được thay đổi một từ nào, cũng không được lấy cả cặp câu lục bát liền nhau.
          - Lẩy Kiều là mượn từng câu trong Truyện Kiều, có sửa đổi đôi chút, rồi ghép lại thành một bài thơ có nội dung định thể hiện, không bắt buộc phải giữ nguyên vần.

          6 – TIỂU ĐỐI:

          Thơ lục bát không bắt buộc phải dùng tiểu đối. Nhưng nếu sử dụng thì ở câu lục chia hai phần phải đối nhau toàn diện (thanh, ý, từ). Còn câu bát cũng chia hai phần chỉ cần đối ý, riêng từ thứ 4 và từ thứ 8 phải đối cân cả thanh và ý.
 
          (Phần tiểu đối và niêm xem bài Luật thơ Đường).

                                                                      TMG