- BÀI II
THƠ TỨ TUYỆT VẦN BẰNG - 2 VẦN
Thơ Tứ Tuyệt Vần Bằng 2 vần cũng có hai thể:
- Luật Trắc Vần Bằng.
- Luật Bằng Vần Bằng.
Đầu tiên, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng - 2 vần.
Sau đây là Bảng Luật Thơ Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng - 2 vần:
1. THƠ TỨ TUYỆT LUẬT TRẮC VẦN BẰNG - 2 VẦN (KHÔNG ĐỐI)
BẢNG LUẬT:
T - T - B - B - B - T - T
B - B - T - T - T - B - B (vần)
B - B - T - T - B - B - T
T - T - B - B - T - T - B (vần)
Ghi chú: Đây là bản chính luật (sẽ có bảng luật bất luận sau). Mới đầu chúng ta nên cố gắng giữ theo chính luật để âm điệu bài thơ được hay. Tuy có bị gò bó nhưng sau nầy sẽ dễ cho chúng ta hơn.
Các tiếng cuối của các câu 2 và 4 bắt buộc phải cùng vần với nhau.
Trước khi đi vào chi tiết của bài Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng - 2 vần, chúng ta thử cùng nhau ngắt bài thơ Thất Ngôn Bát Cú ra thành nhiều bài Tứ Tuyệt để "nghiên cứu" và phân tích.
Bài thơ Thất Ngôn Bát Cú có thể ngắt thành 4 bài thơ Tứ Tuyệt theo 4 cách như sau:
- Bài 1: 4 câu đầu (1-4).
- Bài 2: 4 câu cuối (5-8 ).
- Bài 3: 4 câu giữa (3-6).
- Bài 4: 2 câu đầu (1-2) và 2 câu cuối (7-8 ).
Thí dụ: bài thơ sau đây:
THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn xưa gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường
Bà Huyện Thanh Quan
Ngắt ra:
1.
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
2.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn xưa gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường
3.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
4.
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương
Ngàn xưa gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường
Nhận xét:
Bài 1: Tứ Tuyệt 3 vần bằng.
Bài 2: Tứ Tuyệt 2 vần bằng.
Bài 3: Tứ Tuyệt 2 vần bằng.
Bài 4: Tứ Tuyệt 3 vần bằng.
Như vậy bài thơ Tứ Tuyệt có loại 3 vần và có loại 2 vần.
Phân tích kỹ hơn, chúng ta nhận thấy một bài thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật là do hai bài thơ Tứ Tuyệt ghép lại mà thành, 4 câu đầu là Tứ Tuyệt 3 vần, 4 câu sau là Tứ Tuyệt 2 vần. Điểm đặc biệt đáng lưu ý là 4 câu giữa (3-4-5-6) đối nhau từng cặp một (câu 3-4 đối nhau, câu 5-6 đối nhau) theo phép đối thơ loại 7 chữ (còn gọi là đối ngẫu).
Nếu chỉ làm thơ Tứ Tuyệt thường thì chúng ta không cần làm có đối. Nếu làm thơ Thất Ngôn Bát Cú thì bắt buộc phải có đối như đã nói trên.
Dừng lại ở thơ Tứ Tuyệt, chúng ta có thể làm nhiều bài thơ Tứ Tuyệt cùng diễn tả chung một ý (một nội dung) gọi là Tứ Tuyệt Trường Thiên, dài bao nhiêu cũng được, nhưng nên ngắt ra từng đoạn, mỗi đoạn 4 câu. Muốn làm loại 3 vần cũng được (như bài thơ Hai Sắc Hoa Ti-gôn của T.T.Kh.). Muốn làm loại 2 vần cũng được (như bài thơ Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím của Kiên Giang Hà Huy Hà). Muốn làm lẫn lộn (mixed) vừa 3 vần vừa 2 vần cũng được.
Bây giờ trở lại ý chính của bài Tứ Tuyệt 2 vần bằng. Vì chưa làm thơ Thất Ngôn Bát Cú nên chúng ta chỉ làm thơ Tứ Tuyệt không có đối (tương tự như loại 3 vần mà chúng ta đã làm ở bài 1).
Vậy chúng ta cùng nhau bắt đầu làm bài thực hành
BẢNG LUẬT:
T - T - B - B - B - T - T
B - B - T - T - T - B - B (vần)
B - B - T - T - B - B - T
T - T - B - B - T - T - B (vần)
Bài thơ thí dụ để minh họa:
1.
Xác pháo còn vương màu mực tím
Thư tình vẫn thắm chữ yêu thương
Nhưng ai lại nỡ quên thề ước
Nước mắt nào vơi nỗi đoạn trường
Hoàng Thứ Lang
2.
Đọc áng thơ sầu sa nước mắt
Nghe lời giã biệt giọt châu rơi
Trời cao nỡ đoạn tình đôi lứa
Kẻ nhớ người thương khổ cả đời
Hoàng Thứ Lang
3.
Yến phượng lìa đàn ai oán thảm
Uyên ương lẻ bạn ngẩn ngơ sầu
Đôi ta cách trở ngàn sông núi
Ngắm mảnh trăng tàn lệ thấm bâu
Hoàng Thứ Lang
4.
Nếu chẳng cùng em chung lối mộng
Anh vào cửa Phật nguyện tu hành
Chuông chiều mõ sớm quên tình lụy
Gởi lại am thiền mái tóc xanh
Hoàng Thứ Lang
2. TỨ TUYỆT LUẬT BẰNG VẦN BẰNG - 2 VẦN (KHÔNG ĐỐI)
BẢNG LUẬT:
B - B - T - T - B - B - T
T - T - B - B - T - T - B (vần)
T - T - B - B - B - T - T
B - B - T - T - T - B - B (vần)
Ghi chú: Đây là bản chính luật (sẽ có bảng luật bất luận sau). Mới đầu chúng ta nên cố gắng giữ theo chính luật để âm điệu bài thơ được hay. Tuy có bị gò bó nhưng sau nầy sẽ dễ cho chúng ta hơn.
Các tiếng cuối của các câu 2 và 4 bắt buộc phải cùng vần với nhau.
Bài thơ thí dụ để minh họa:
1.
Hè về đỏ thắm màu hoa phượng
Ánh mắt buồn tênh buổi bãi trường
Gạt lệ chia tay người mỗi ngã
Âm thầm cố nén giọt sầu thương
Hoàng Thứ Lang
2.
Trên sông khói sóng buồn hiu hắt
Dõi mắt phương trời nhớ cố hương
Trắng xóa màn sương trời chớm lạnh
Thương ai khắc khoải đoạn can trường
Hoàng Thứ Lang
Thứ Năm, 22 tháng 9, 2016
THƠ ĐƯỜNG LUẬT
Thứ Hai, 19 tháng 9, 2016
LUẬT THƠ LỤC BÁT
LUẬT THƠ LỤC BÁT
Trần Mỹ Giống sưu tầm và biên soạn
![]() |
Tác giả Trần Mỹ Giống |
1 - VẦN TIẾNG VIỆT:
Vần là yêu cầu tối quan trọng đối với thơ lục bát nên cần nắm sơ qua về “vần” tiếng Việt.
+ Vần tiếng Việt bắt đầu bằng các nguyên âm, là nguyên âm hoặc nguyên âm ghép với các phụ âm đơn hoặc phụ âm kép.
Ví dụ:
Từ TA có vần là A là nguyên âm A.
Từ THAN có vần là AN là nguyên âm A ghép với phụ âm đơn N.
Từ THANH có vần là ANH là nguyên âm A ghép với phụ âm kép NH.
Từ THAN có vần là AN là nguyên âm A ghép với phụ âm đơn N.
Từ THANH có vần là ANH là nguyên âm A ghép với phụ âm kép NH.
+ Vần tiếng Việt nếu có hai nguyên âm đứng đầu thì tính cả hai nguyên âm đó.
Ví dụ:
Từ TOANH có vần là OANH.
Tuy nhiên cũng có trường hợp lại chỉ tính từ nguyên âm thứ hai. Việc xác định vần trong trường hợp này nên tra cứu bảng thống kê vần trên đây để tham khảo. Ví dụ:
Từ “quện” có vần là “ên” chứ không phải “uên” vì trong bảng tra vần không có vần “uên”.
Từ “giang” có vần là “ang” chứ không phải “iang” vì trong bảng tra vần không có vần “iang”.
Tuy nhiên cũng có trường hợp lại chỉ tính từ nguyên âm thứ hai. Việc xác định vần trong trường hợp này nên tra cứu bảng thống kê vần trên đây để tham khảo. Ví dụ:
Từ “quện” có vần là “ên” chứ không phải “uên” vì trong bảng tra vần không có vần “uên”.
Từ “giang” có vần là “ang” chứ không phải “iang” vì trong bảng tra vần không có vần “iang”.
2- CÁC LOẠI VẦN TRONG THƠ LỤC BÁT:
- Một cặp thơ lục bát gồm hai câu: câu đầu 6 từ, câu hai 8 từ.
- Thơ lục bát có các loại vần sau:
Mỗi vần có hai dạng là VẦN BẰNG và VẦN TRẮC tùy thuộc vào các thanh (còn gọi là dấu) kèm theo nó. Ví dụ: vần “an” có “an”, “àn” là vần bằng, “án”, “ản”, “ãn”, “ạn” là vần trắc.
- Thơ lục bát có các loại vần sau:
Mỗi vần có hai dạng là VẦN BẰNG và VẦN TRẮC tùy thuộc vào các thanh (còn gọi là dấu) kèm theo nó. Ví dụ: vần “an” có “an”, “àn” là vần bằng, “án”, “ản”, “ãn”, “ạn” là vần trắc.
+ Vần bằng: là vần không có thanh và vần có thanh huyền (tức dấu huyền). Ví dụ:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”thì từ “ta”, “nhau” có vần không thanh (không dấu). Còn từ “là” có vần có thanh huyền (dấu huyền).
Vần bằng trong thơ lục bát: Từ thứ 6 câu lục và từ thứ 8 câu bát thường là vần bằng. Vần được nối tiếp từ vần chân câu lục sang vần lưng (tức vần yêu) của câu bát. Vần chân câu bát lại nối tiếp hiệp vần với vần chân câu lục tiếp sau...
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”thì từ “ta”, “nhau” có vần không thanh (không dấu). Còn từ “là” có vần có thanh huyền (dấu huyền).
Vần bằng trong thơ lục bát: Từ thứ 6 câu lục và từ thứ 8 câu bát thường là vần bằng. Vần được nối tiếp từ vần chân câu lục sang vần lưng (tức vần yêu) của câu bát. Vần chân câu bát lại nối tiếp hiệp vần với vần chân câu lục tiếp sau...
Ví dụ:
Nhằm ngày mồng Tám tháng ba
Chị em bao hết trai già trai non
Trai già nhấp chén rượu ngon
Tưng bừng dậm dật như còn... trai tơ Chị em ngẩn ngẩn ngơ ngơ
Hỏi... cái vật vờ còn... vật được chăng?
Chị em bao hết trai già trai non
Trai già nhấp chén rượu ngon
Tưng bừng dậm dật như còn... trai tơ Chị em ngẩn ngẩn ngơ ngơ
Hỏi... cái vật vờ còn... vật được chăng?
(Trai già – Thơ vui Trần Mỹ Giống)
+ Vần trắc: là các vần có một trong các thanh: sắc, hỏi, ngã, nặng.
Ví dụ:
Tò vò mà nuôi con nhện
Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi Các từ “nhện” và “quện” mang vần trắc. Trường hợp này rất ít khi dùng. Nếu sử dụng thì bao giờ từ thứ 6 của câu lục và câu bát cũng đều phải dùng thanh trắc.
Tò vò mà nuôi con nhện
Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi Các từ “nhện” và “quện” mang vần trắc. Trường hợp này rất ít khi dùng. Nếu sử dụng thì bao giờ từ thứ 6 của câu lục và câu bát cũng đều phải dùng thanh trắc.
+ Vần chân: là vần ở cuối câu lục và cuối câu bát.
Ví dụ:
Mải mê đuổi bóng bắt hình
Tóc sương chợt ngộ ra mình ngu ngơ.
Mải mê đuổi bóng bắt hình
Tóc sương chợt ngộ ra mình ngu ngơ.
(Ngu ngơ – Trần Mỹ Giống)
Thì vần “inh” trong từ “hình” ở câu lục, vần “ơ” trong từ “ngơ” ở câu bát là các vần chân.
Thì vần “inh” trong từ “hình” ở câu lục, vần “ơ” trong từ “ngơ” ở câu bát là các vần chân.
+ Vần chính và vần phụ: Vần gieo ở câu trước là vần chính, vần gieo ở câu sau là vần phụ. Nếu vần câu sau cùng vần với vần câu trước thì cũng là vần chính.
+ Vần yêu: Là vần ở giữa câu bát, thường là vần ở từ thứ 6, nếu vần rơi vào từ thứ 4 thì từ thứ 6 phải chuyển ngược thanh với từ thứ 4.
Ví dụ:
Yêu em anh nắm cổ tay
Anh hỏi câu này có lấy anh không.
Ví dụ:
Yêu em anh nắm cổ tay
Anh hỏi câu này có lấy anh không.
+ Điệp vận: Vần tiếp sau giống hệt vần trước.
+ Phong yêu (lưng ong): Trong một câu mà vần lưng và vần chân đều cùng một vần thì gọi là phong yêu. Cần tránh phong yêu vì đọc lên nghe mất âm điệu, không hay.
Ví dụ:
Cả đêm thao thức bồn chồn
Râm ran tiếng mõ dập dồn đầu thôn.
Ví dụ:
Cả đêm thao thức bồn chồn
Râm ran tiếng mõ dập dồn đầu thôn.
+ Lạc vận: Là vần chân câu lục sang vần lưng câu bát, vần chân câu bát sang vần chân câu lục tiếp theo lại không cùng vần, đọc nghe mất âm điệu.
Ví dụ:
Mang danh kẻ sĩ Bắc Hà
Lại chui vỏ ốc, lại chuồn đi đâu.
Ví dụ:
Mang danh kẻ sĩ Bắc Hà
Lại chui vỏ ốc, lại chuồn đi đâu.
+ Vần thông và lân vận (vần ép): Các vần nối tiếp nhau phải cùng vần (vần chính), nếu vần tiếp theo khác hẳn vần chính thì lạc vận, nếu gần giống vần chính thì gọi là lân vận, nếu vần đọc lên nghe na ná vần chính thì gọi là thông vận (vần phụ).
Ví dụ:
Lù lù ngồi giữa công đường
Ra oai có vẻ ông hoàng ta đây.
Ví dụ:
Lù lù ngồi giữa công đường
Ra oai có vẻ ông hoàng ta đây.
3 – LUẬT BẰNG TRẮC TRONG THƠ LỤC BÁT:
A - Mô hình:
Các từ số: 1 2 3 4 5 6 7 8
Câu lục 1: + B + T + B
Câu lục 2: + T T + + B
Câu bát 1: + B + T + B + B
Câu bát 2: + T + B + T + B
Câu lục 2: + T T + + B
Câu bát 1: + B + T + B + B
Câu bát 2: + T + B + T + B
Ký hiệu: B là thanh bằng, T là thanh trắc, + là tự do.
B – Luật bằng trắc trong thơ lục bát:
- Các từ 2, 4, 6, 8 phải luôn đúng luật bằng trắc (xem mô hình trên).
- Các từ 2, 4 câu lục phải niêm với các từ 2, 4 câu bát.
- Từ thứ 2 câu lục và câu bát phải là thanh bằng. Trường hợp bố trí từ thứ 2 câu lục là thanh trắc thì phải đưa về dạng tiểu đối. Tức là chia câu lục làm 2 về, mỗi vế 3 từ, đối nhau. Từ thứ 2, 3 phải là thanh trắc, từ thứ 6 phải là thanh bằng (như mô hình câu lục 2). Ví dụ:
Đi vạn dặm, viết nghìn trang
Khơi trong gạn đục vẻ vang một đời. Chú ý: Từ số 5 câu lục nên dùng thanh bằng để đảm bảo đối cho cân, trường hợp hãn hữu mới dùng thanh trắc. Ví dụ: “Khi tựa gối, khi cúi đầu”... Nếu làm thơ nghệ thuật quyết không dùng trường hợp hãn hữu này. - Từ thứ 4 câu lục và câu bát phải là thanh trắc. Để câu thơ cân đối thì từ thứ 4 phải là thanh trắc (để gánh hai thanh bằng ở từ thứ 2 và 6). Nếu ở câu bát đã gieo vần lưng vào từ thứ 4 là thanh bằng thì từ thứ 6 phải dùng thanh trắc.
- Muốn câu thơ có nhạc thì ở câu bát phải bố trí từ thứ 6 thanh không (không dấu) và từ thứ 8 thanh huyền hoặc ngược lại. Nếu bố trí cả hai từ này cùng một thanh huyền (hoặc cùng thanh không) thì câu thơ đọc lên mất tính nhạc. Ví dụ:
Hỏi thăm cô ấy có chồng chưa nào?
- Các từ 2, 4 câu lục phải niêm với các từ 2, 4 câu bát.
- Từ thứ 2 câu lục và câu bát phải là thanh bằng. Trường hợp bố trí từ thứ 2 câu lục là thanh trắc thì phải đưa về dạng tiểu đối. Tức là chia câu lục làm 2 về, mỗi vế 3 từ, đối nhau. Từ thứ 2, 3 phải là thanh trắc, từ thứ 6 phải là thanh bằng (như mô hình câu lục 2). Ví dụ:
Đi vạn dặm, viết nghìn trang
Khơi trong gạn đục vẻ vang một đời. Chú ý: Từ số 5 câu lục nên dùng thanh bằng để đảm bảo đối cho cân, trường hợp hãn hữu mới dùng thanh trắc. Ví dụ: “Khi tựa gối, khi cúi đầu”... Nếu làm thơ nghệ thuật quyết không dùng trường hợp hãn hữu này. - Từ thứ 4 câu lục và câu bát phải là thanh trắc. Để câu thơ cân đối thì từ thứ 4 phải là thanh trắc (để gánh hai thanh bằng ở từ thứ 2 và 6). Nếu ở câu bát đã gieo vần lưng vào từ thứ 4 là thanh bằng thì từ thứ 6 phải dùng thanh trắc.
- Muốn câu thơ có nhạc thì ở câu bát phải bố trí từ thứ 6 thanh không (không dấu) và từ thứ 8 thanh huyền hoặc ngược lại. Nếu bố trí cả hai từ này cùng một thanh huyền (hoặc cùng thanh không) thì câu thơ đọc lên mất tính nhạc. Ví dụ:
Hỏi thăm cô ấy có chồng chưa nào?
4 – HỌA THƠ LỤC BÁT:
Khi họa thơ lục bát cần tuân thủ nghiêm yêu cầu: Từ thứ 5, 7 ở câu bát và từ thứ 5 câu lục không được trùng với bài xướng.
Khi họa nguyên vận thơ lục bát phải dùng đúng vần (cả vần chân và vần lưng) với bài xướng. Nhưng cũng có thể chỉ họa đúng vần chân cho dễ hơn...
Khi họa nguyên vận thơ lục bát phải dùng đúng vần (cả vần chân và vần lưng) với bài xướng. Nhưng cũng có thể chỉ họa đúng vần chân cho dễ hơn...
5 – TẬP KIỀU VÀ LẨY KIỀU:
- Tập Kiều là lấy nguyên văn câu lục và câu bát ghép lại với nhau thành một bài thơ lục bát hoàn chỉnh. Chú ý: không được thay đổi một từ nào, cũng không được lấy cả cặp câu lục bát liền nhau.
- Lẩy Kiều là mượn từng câu trong Truyện Kiều, có sửa đổi đôi chút, rồi ghép lại thành một bài thơ có nội dung định thể hiện, không bắt buộc phải giữ nguyên vần.
- Lẩy Kiều là mượn từng câu trong Truyện Kiều, có sửa đổi đôi chút, rồi ghép lại thành một bài thơ có nội dung định thể hiện, không bắt buộc phải giữ nguyên vần.
6 – TIỂU ĐỐI:
Thơ lục bát không bắt buộc phải dùng tiểu đối. Nhưng nếu sử dụng thì ở câu lục chia hai phần phải đối nhau toàn diện (thanh, ý, từ). Còn câu bát cũng chia hai phần chỉ cần đối ý, riêng từ thứ 4 và từ thứ 8 phải đối cân cả thanh và ý.
(Phần tiểu đối và niêm xem bài Luật thơ Đường).
TMG
Thứ Bảy, 6 tháng 8, 2016
LỄ HỘI SỜ NGỰC TRONG THÁNG CÔ HỒN
LỄ HỘI SỜ NGỰC
TRONGTHÁNG CÔ HỒN
''Hội sờ ti''ở bên Trung Quốc
Thời nhà Tùy đã được hình thành
Ngày này nữ tú ,nam thanh
Xuống đường hào hứng đua tranh góp phần
Để tránh nạn mỗi lần cúng tế
Cho cô hồn.Vì thế cho nên
Các cô đi hội không quên
Nhũ hoa thả lỏng một bên cho sờ
Cô hồn thấy cho là mất dấu
Chê các cô rồi bảo nhau đi
Thế là thoát được mối nguy...
Hội này vẫn được duy trì tới nay
Kể ra cũng hay hay đấy nhỉ
Mong nhiều nơi không chỉ Vân Nam
Tuy rằng đừng có quá ham
Để mà lợi dụng hóa nhàm- mất thiêng
Mỗi miền có nét riêng văn hóa
Nên giữ gìn cho cả mai sau
Dở hay ''đóng cửa bảo nhau''
Phát huy truyền thống dài lâu,vững bền
TRONGTHÁNG CÔ HỒN
''Hội sờ ti''ở bên Trung Quốc
Thời nhà Tùy đã được hình thành
Ngày này nữ tú ,nam thanh
Xuống đường hào hứng đua tranh góp phần
Để tránh nạn mỗi lần cúng tế
Cho cô hồn.Vì thế cho nên
Các cô đi hội không quên
Nhũ hoa thả lỏng một bên cho sờ
Cô hồn thấy cho là mất dấu
Chê các cô rồi bảo nhau đi
Thế là thoát được mối nguy...
Hội này vẫn được duy trì tới nay
Kể ra cũng hay hay đấy nhỉ
Mong nhiều nơi không chỉ Vân Nam
Tuy rằng đừng có quá ham
Để mà lợi dụng hóa nhàm- mất thiêng
Mỗi miền có nét riêng văn hóa
Nên giữ gìn cho cả mai sau
Dở hay ''đóng cửa bảo nhau''
Phát huy truyền thống dài lâu,vững bền
(DIZIKIMI phóng tác theo nội dung sau
đây)
Nam giới có thể tùy ý sờ ngực các cô gái
trong ba ngày tháng 7 âm lịch mà không bị
coi là hành vi khiếm nhã, thiếu tôn trọng.
Lễ hội sờ ngực hay lễ hội ma quỷ, là một nét văn hóa truyền thống của người dân tộc Di, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.
Hàng năm, cứ vào ngày 14-16/7 âm lịch, ngoài việc đốt vàng mã cúng tế, tất cả nam và nữ khi ra ngoài đường đều phải tuân thủ quy định của lễ hội sờ ngực. Đàn ông phải sờ ngực phụ nữ một cách nhiệt tình, còn phụ nữ phải đón nhận việc đó một cách vui vẻ. Mọi người đều coi việc sờ và “được sờ” này sẽ mang đến may mắn cát tường cho bản thân.
Phụ nữ ăn mặc, trang điểm xinh đẹp đến dự lễ hội.
|
Theo tục lệ, các chàng trai và cô gái còn độc thân sẽ ra ngoài đường tụ tập tham dự lễ hội và tìm đối tác. Khi tìm được người ưng ý, hai người sẽ nắm tay nhau cùng đi vào rừng tùng trên núi... Nhưng ngày nay đa số mọi người, bao gồm cả khách du lịch đến đây, nếu trên đường gặp cô gái mình thích đều có thể tùy ý sờ ngực để lấy may. Các cô gái cũng không vì vậy mà tức giận, ngược lại đều cảm thấy vui vẻ.
Tuy liên quan đến vấn đề giới tính nhưng người dân tộc Di lại coi đây là một ngày lễ truyền thống. Trong thời gian lễ hội diễn ra, nam thanh nữ tú vui chơi, đánh đàn ca hát nhảy múa làm cho không khí trở nên sôi động.
Trong 3 ngày này các cô gái chỉ mặc đồ che kín một bên ngực, còn một bên để hờ hững. Người ta quan niệm bên ngực được che kín chính là để gìn giữ cho chồng tương lai, còn với ngực để lộ, mọi người đều có thể không cần kiêng nể mà động chạm. Các cô gái bên ngoài tỏ ra e thẹn và chạy trốn nhưng lại hoàn toàn không có ý trách móc hay giận dữ nào.
Người dân tưng bừng ăn mừng lễ hội.
|
Theo truyền thuyết, vào đời nhà Tùy (581 – 619) chiến tranh liên miên, có rất nhiều thanh niên bị bắt đi lính và chết trận khi còn rất trẻ. Do cuộc sống ngắn ngủi chưa tận hưởng hết hương vị của đời nên những người bị chết oan uổng này biến thành những cô hồn đi lang thang khắp nơi bắt các cô gái chưa chồng về làm vợ.
Những cô hồn này lại có tư tưởng “trinh nữ hoàn mỹ” mãnh liệt, không bắt các cô gái đã bị người khác sờ vào ngực. Các cô gái vì không muốn trở thành vợ của quỷ nên nhờ các thanh niên trong bộ tộc sờ lên ngực mình để đổi lấy bình an.
Cứ thế tục lệ được lưu truyền từ đời này sang đời khác cho đến ngày nay và trở thành một nét văn hóa truyền thống độc đáo, thu hút lượng lớn khách du lịch đến nơi đây.
Ngọc Mai
Thứ Năm, 4 tháng 8, 2016
VỢ LÀ....
- Trang chủ
- Thời sự
- Góc nhìn
- Thế giới
- Kinh doanh
- Giải trí
- Thể thao
- Pháp luật
- Giáo dục
- Điểm thi Tốt nghiệp THPT quốc gia 2016
- Sức khỏe
- Gia đình
- Du lịch
- Khoa học
- Số hóa
- Xe
- Cộng đồng
- Tâm sự
- Video
- Ảnh
- Infographics
- Cười
- Rao vặt
- 24h qua
- Liên hệ Tòa soạn
- Thông tin Tòa soạn
© Copyright 1997- VnExpress.net, All rights reserved
® VnExpress giữ bản quyền nội dung trên website này.
- Trang chủ
- Thời sự
- Góc nhìn
- Thế giới
- Kinh doanh
- Giải trí
- Thể thao
- Pháp luật
- Giáo dục
- Điểm thi Tốt nghiệp THPT quốc gia 2016
- Sức khỏe
- Gia đình
- Du lịch
- Khoa học
- Số hóa
- Xe
- Cộng đồng
- Tâm sự
- Video
- Ảnh
- Infographics
- Cười
- Rao vặt
- 24h qua
- Liên hệ Tòa soạn
- Thông tin Tòa soạn
© Copyright 1997- VnExpress.net, All rights reserved
® VnExpress giữ bản quyền nội dung trên website này.
Đến khi xuất giá trở thành ... "quan gia"
Vợ là con của người ta
Và ta quen Vợ chẳng qua vì tình
Có quan thì phải có binh
Nên ta làm ... lính hầu tình "quan gia"
Con ta do Vợ sanh ra
Nên ta với nó ... chẳng bà con chi
Tại vì hôm Vợ vu quy
Ta lỡ làm ... lính hầu đi bên nàng
Làm lính chứ không ... làm tàng
Tính chất Vợ ta phải càng hiểu hơn
Mỗi khi mà Vợ giận hờn
Áp dụng "công thức giản đơn" ... làm huề
Khi Vợ đã ngỏ lời ... chê
Nên sửa đổi ... "database" tức thì
Mỗi khi Vợ nhờ chuyện gì
"Program" Vợ viết nhớ ghi trong lòng
Khi Vợ đã nói là ... "không !"
"Nguyên hàm bất định", đừng mong tìm dò
Vợ mà nổi nóng giằng co
"Bảo toàn định luật" phải lo sẵn sàng
Khi nào cùng Vợ ra đàng
"Bảy hằng đẳng thức" sẵn sàng lắng nghe
Mỗi khi mà đã ngừng xe
Phải lo ... "chuyển vế " mở xe cho nàng
Cùng Vợ đi vào nhà hàng
Không nên tự ý "khai hàm tích phân"
Hễ thấy mặt Vợ nhăn nhăn
"Khảo sát hàm số " nhưng cần làm thinh
Vợ ... input chữ "Shopping"
Thì ... output phải áo xinh, váy đầm ...
Muốn Vợ đừng có ... chầm bầm
Credit cards cứ âm thầm ... "khai căn"
Nếu ... lỡ mà có lăng nhăng
"Giá trị tuyệt đối" một lần rồi thôi
Tình Vợ mà có muôn đời
Phải nhường Vợ chức ... "đương thời quan gia"
Muốn Vợ trẻ mãi không già
Lưng ta chắc phải như là ... parabol
Tính chất Vợ thì phải tuân
Kẻ làm ... lính phải luôn luôn thật thà
Nấu cơm, đi chợ, quét nhà ...
Quan gọi thì ... dạ , bẩm bà có ngay
Quan thương sẽ cười suốt ngày
Quan ghét ... lính sẽ bị đày khổ sai
Hễ ai có cười chê bai
Đổ thừa ... thương Vợ chứ ai mà đần
Tính chất phải ... học nhiều lần
Nếu không áp dụng trăm phần trăm ... thua
..............................................................
Vợ là mẹ các con ta
Thường kêu bà xã, hiệu là phu nhân
Vợ là tổng hợp: bạn thân
Thủ trưởng, bảo mẫu, tình nhân, mẹ hiền...
Vợ là ngân khố, kho tiền
Gửi vô nhanh gọn, hơi phiền rút ra
Vợ là biển cả bao la
Đôi khi nổi sóng khiến ta chìm phà
Vợ là âm nhạc, thi ca
Vừa là cô giáo, vừa là luật sư
Cả gan đấu khẩu vợ ư
Cá ươn không muối, chồng hư cãi vờ (vợ)
Chồng ơi! Đừng có dại khờ
Không vợ, đố biết cậy nhờ tay ai
Vợ là phước lộc thọ tài...
Thuộc trăm định nghĩa, trả bài vợ khen..
Nghe ông định nghĩa vợ hiền
Tuyệt sao mà tuyệt, tôi liền ....định theo
Định mà cái ruột tôi teo
Định như tôi định... thì hèo vào mông!
Vợ là bạn thiệt phải không?
Nên luôn lục bóp xem chồng giấu chi
Vợ là thượng cấp, chỉ huy
Là người lãnh đạo, bảo gì, chồng vâng!
Vợ là bà ....mẫu, ông ...thân
ớm hôm hiếu thảo, ân cần dám quên
Vợ là cảnh sát ven biên
Chồng mà "đi lạc", bắt liền, điều tra!
Vợ là nội tướng trong nhà
Đồng hồ luôn kiểm, giúp ta đúng giờ
Vợ là chủ nợ ngây thơ
Cho chồng tháng tháng ngon ơ, nộp tiền
Vợ là thư ký rất riêng
Thư từ, ngăn kéo toàn quyền moi ra
Vợ còn đại diện quan toà
Bắt tội phải nhận, bảo tha được nhờ
Vợ là bà chủ căn cơ
Quen mồm sai vặt, con thơ ngại bồng
Vợ còn là những cơn giông
Thổi chồng ra ngủ salon là thường
Vơ là cung cách đế vương
Áo quần sang trọng, đúng đường văn minh
Vợ với Táo chẳng thân tình
Chồng bèn một bếp, một mình quyền uy
Phát thanh, đài vợ rất chì
Cằn nhằn trăm chuyện phát đi đêm ngày
Vợ là võ sĩ cao tay
Ngọn quyền, môn cước nàng hay...thử chồng
Vợ là ....đủ nghĩa, biết không?
Ba ngày "định" cũng chưa xong "nghĩa" nàng
Thôi đành chấm hết. Ngưng ngang!
Kẻo không, nội tướng lại phang vài hèo!
Hỡi chồng, nghe thế, có ...tèo
Teo, nhưng có muốn chèo queo một mình ???
Nếu không, chớ định, chớ bình
Nàng mà nóng mặt thì mình bỏ thây!!
Đến khi xuất giá trở thành ... "quan gia"
Vợ là con của người ta
Và ta quen Vợ chẳng qua vì tình
Có quan thì phải có binh
Nên ta làm ... lính hầu tình "quan gia"
Con ta do Vợ sanh ra
Nên ta với nó ... chẳng bà con chi
Tại vì hôm Vợ vu quy
Ta lỡ làm ... lính hầu đi bên nàng
Làm lính chứ không ... làm tàng
Tính chất Vợ ta phải càng hiểu hơn
Mỗi khi mà Vợ giận hờn
Áp dụng "công thức giản đơn" ... làm huề
Khi Vợ đã ngỏ lời ... chê
Nên sửa đổi ... "database" tức thì
Mỗi khi Vợ nhờ chuyện gì
"Program" Vợ viết nhớ ghi trong lòng
Khi Vợ đã nói là ... "không !"
"Nguyên hàm bất định", đừng mong tìm dò
Vợ mà nổi nóng giằng co
"Bảo toàn định luật" phải lo sẵn sàng
Khi nào cùng Vợ ra đàng
"Bảy hằng đẳng thức" sẵn sàng lắng nghe
Mỗi khi mà đã ngừng xe
Phải lo ... "chuyển vế " mở xe cho nàng
Cùng Vợ đi vào nhà hàng
Không nên tự ý "khai hàm tích phân"
Hễ thấy mặt Vợ nhăn nhăn
"Khảo sát hàm số " nhưng cần làm thinh
Vợ ... input chữ "Shopping"
Thì ... output phải áo xinh, váy đầm ...
Muốn Vợ đừng có ... chầm bầm
Credit cards cứ âm thầm ... "khai căn"
Nếu ... lỡ mà có lăng nhăng
"Giá trị tuyệt đối" một lần rồi thôi
Tình Vợ mà có muôn đời
Phải nhường Vợ chức ... "đương thời quan gia"
Muốn Vợ trẻ mãi không già
Lưng ta chắc phải như là ... parabol
Tính chất Vợ thì phải tuân
Kẻ làm ... lính phải luôn luôn thật thà
Nấu cơm, đi chợ, quét nhà ...
Quan gọi thì ... dạ , bẩm bà có ngay
Quan thương sẽ cười suốt ngày
Quan ghét ... lính sẽ bị đày khổ sai
Hễ ai có cười chê bai
Đổ thừa ... thương Vợ chứ ai mà đần
Tính chất phải ... học nhiều lần
Nếu không áp dụng trăm phần trăm ... thua
..............................................................
Vợ là mẹ các con ta
Thường kêu bà xã, hiệu là phu nhân
Vợ là tổng hợp: bạn thân
Thủ trưởng, bảo mẫu, tình nhân, mẹ hiền...
Vợ là ngân khố, kho tiền
Gửi vô nhanh gọn, hơi phiền rút ra
Vợ là biển cả bao la
Đôi khi nổi sóng khiến ta chìm phà
Vợ là âm nhạc, thi ca
Vừa là cô giáo, vừa là luật sư
Cả gan đấu khẩu vợ ư
Cá ươn không muối, chồng hư cãi vờ (vợ)
Chồng ơi! Đừng có dại khờ
Không vợ, đố biết cậy nhờ tay ai
Vợ là phước lộc thọ tài...
Thuộc trăm định nghĩa, trả bài vợ khen..
Nghe ông định nghĩa vợ hiền
Tuyệt sao mà tuyệt, tôi liền ....định theo
Định mà cái ruột tôi teo
Định như tôi định... thì hèo vào mông!
Vợ là bạn thiệt phải không?
Nên luôn lục bóp xem chồng giấu chi
Vợ là thượng cấp, chỉ huy
Là người lãnh đạo, bảo gì, chồng vâng!
Vợ là bà ....mẫu, ông ...thân
ớm hôm hiếu thảo, ân cần dám quên
Vợ là cảnh sát ven biên
Chồng mà "đi lạc", bắt liền, điều tra!
Vợ là nội tướng trong nhà
Đồng hồ luôn kiểm, giúp ta đúng giờ
Vợ là chủ nợ ngây thơ
Cho chồng tháng tháng ngon ơ, nộp tiền
Vợ là thư ký rất riêng
Thư từ, ngăn kéo toàn quyền moi ra
Vợ còn đại diện quan toà
Bắt tội phải nhận, bảo tha được nhờ
Vợ là bà chủ căn cơ
Quen mồm sai vặt, con thơ ngại bồng
Vợ còn là những cơn giông
Thổi chồng ra ngủ salon là thường
Vơ là cung cách đế vương
Áo quần sang trọng, đúng đường văn minh
Vợ với Táo chẳng thân tình
Chồng bèn một bếp, một mình quyền uy
Phát thanh, đài vợ rất chì
Cằn nhằn trăm chuyện phát đi đêm ngày
Vợ là võ sĩ cao tay
Ngọn quyền, môn cước nàng hay...thử chồng
Vợ là ....đủ nghĩa, biết không?
Ba ngày "định" cũng chưa xong "nghĩa" nàng
Thôi đành chấm hết. Ngưng ngang!
Kẻo không, nội tướng lại phang vài hèo!
Hỡi chồng, nghe thế, có ...tèo
Teo, nhưng có muốn chèo queo một mình ???
Nếu không, chớ định, chớ bình
Nàng mà nóng mặt thì mình bỏ thây!!
![20-1-6-7329-1421725058.jpg](https://m.f29.img.vnecdn.net/2015/01/20/20-1-6-7329-1421725058.jpg)
Về mặt kinh tế: Vợ là ngân hàng vô luật pháp, không thể lệ: gửi vào thì dễ, rút ra thì khó mà không thể kiện cáo gì được.
Về mặt tài sản: Vợ là cái gì rất cũ mà không thể thanh lý được.
Về mặt xã hội: Vợ là cá nhân tự do, tình nguyện về chung sống với ta nhưng lại luôn tố cáo ta làm mất tự do của cô ấy, và nếu như ta trả lại thì lại không nhận.
Về mặt cổ học: Vợ là loại đồ cổ càng để lâu càng mất giá.
Về mặt sinh học: Vợ được ví như là 'sư tử'.
Trùm Sò (st)
![]() |
Về mặt kinh tế: Vợ là ngân hàng vô luật pháp, không thể lệ: gửi vào thì dễ, rút ra thì khó mà không thể kiện cáo gì được.
Về mặt tài sản: Vợ là cái gì rất cũ mà không thể thanh lý được.
Về mặt xã hội: Vợ là cá nhân tự do, tình nguyện về chung sống với ta nhưng lại luôn tố cáo ta làm mất tự do của cô ấy, và nếu như ta trả lại thì lại không nhận.
Về mặt cổ học: Vợ là loại đồ cổ càng để lâu càng mất giá.
Về mặt sinh học: Vợ được ví như là 'sư tử'.
Trùm Sò (st)
Nhân ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3, độc giả Thế Lý chia sẻ những định nghĩa rất thú vị về vợ yêu:
Hôm nay mùng 8 tháng 3
Không biết định nghĩa Vợ là chi đây
Vợ là quả ớt chín cây
Đỏ tươi ngoài vỏ rất cay trong lòng.
Vợ là một đoá hoa hồng
Vợ là "sư tử Hà Đông" trong nhà.
Vợ là nắng gắt mưa sa
Vợ là giông tố phong ba bão bùng.
Nhiều người nhờ Vợ lên Ông
Nhiều người vì Vợ mất không cơ đồ
Vợ là cả những vần thơ
Vợ là cả những giấc mơ vơi đầy
Vợ là một chất men say
Là nước hoa ngoại làm ngây ngất lòng
Vợ là một áng mây hồng
Vợ là hoa hậu để chồng mê say.
Vợ là khối óc bàn tay
Vợ là bác sĩ tháng ngày chăm ta
Vợ là nụ Vợ là hoa
Vợ là chồi biếc Vợ là mùa xuân.
Vợ là tín dụng nhân dân
Vợ là kế toán giải ngân trong nhà
Vợ là biển rộng bao la
Vợ là hương lúa đậm đà tình quê
Vợ là gió mát trưa hè
Vợ là hơi ấm thổi về đêm đông.
Vợ là chỗ dựa cho chồng
Nhiều ông dám bảo vợ không là gì!?
Khoan khoan hãy nghĩ lại đi
Vợ quan trọng lắm không gì hơn đâu.
Việc nhà vợ có công đầu
Nấu cơm, nấu nước, rửa rau, pha trà.
Vợ là máy giặt trong nhà
Vợ là Cát-sét Vợ là Tivi.
Nhiều đêm Vợ hát Chồng nghe
Lời ru xưa lại vọng về trong ta.
Vợ là làn điệu dân ca.
Vợ là bà chủ, vợ là nhân viên
Vợ là cái máy đếm tiền
Vợ là "Nội lực" làm nên cơ đồ
Vợ là thủ quỹ thủ kho
Vợ là hạnh phúc ấm no trong nhà.
Vợ là vũ trụ bao la
Nhiều điều bí ẩn mà ta chưa tường.
Khi nào giận, lúc nào thương.
Sớm mưa, chiều nắng ai lường được đâu.
Vợ là một khúc sông sâu
Vợ như là cả một bầu trời xanh
Vợ là khúc nhạc tâm tình
Vợ là cây trúc bên đình làm duyên
Vợ là cô Tấm thảo hiền.
Vợ là cô Cám hám tiền ham chơi.
Vợ là con Phật, cháu Trời,
Rẽ mây rơi xuống làm người trần gian.
Vợ là...
Thế Lý
Nhân ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3, độc giả Thế Lý chia sẻ những định nghĩa rất thú vị về vợ yêu:
Hôm nay mùng 8 tháng 3
Không biết định nghĩa Vợ là chi đây
Vợ là quả ớt chín cây
Đỏ tươi ngoài vỏ rất cay trong lòng.
Vợ là một đoá hoa hồng
Vợ là "sư tử Hà Đông" trong nhà.
Vợ là nắng gắt mưa sa
Vợ là giông tố phong ba bão bùng.
Nhiều người nhờ Vợ lên Ông
Nhiều người vì Vợ mất không cơ đồ
Vợ là cả những vần thơ
Vợ là cả những giấc mơ vơi đầy
Vợ là một chất men say
Là nước hoa ngoại làm ngây ngất lòng
Vợ là một áng mây hồng
Vợ là hoa hậu để chồng mê say.
Vợ là khối óc bàn tay
Vợ là bác sĩ tháng ngày chăm ta
Vợ là nụ Vợ là hoa
Vợ là chồi biếc Vợ là mùa xuân.
Vợ là tín dụng nhân dân
Vợ là kế toán giải ngân trong nhà
Vợ là biển rộng bao la
Vợ là hương lúa đậm đà tình quê
Vợ là gió mát trưa hè
Vợ là hơi ấm thổi về đêm đông.
Vợ là chỗ dựa cho chồng
Nhiều ông dám bảo vợ không là gì!?
Khoan khoan hãy nghĩ lại đi
Vợ quan trọng lắm không gì hơn đâu.
Việc nhà vợ có công đầu
Nấu cơm, nấu nước, rửa rau, pha trà.
Vợ là máy giặt trong nhà
Vợ là Cát-sét Vợ là Tivi.
Nhiều đêm Vợ hát Chồng nghe
Lời ru xưa lại vọng về trong ta.
Vợ là làn điệu dân ca.
Vợ là bà chủ, vợ là nhân viên
Vợ là cái máy đếm tiền
Vợ là "Nội lực" làm nên cơ đồ
Vợ là thủ quỹ thủ kho
Vợ là hạnh phúc ấm no trong nhà.
Vợ là vũ trụ bao la
Nhiều điều bí ẩn mà ta chưa tường.
Khi nào giận, lúc nào thương.
Sớm mưa, chiều nắng ai lường được đâu.
Vợ là một khúc sông sâu
Vợ như là cả một bầu trời xanh
Vợ là khúc nhạc tâm tình
Vợ là cây trúc bên đình làm duyên
Vợ là cô Tấm thảo hiền.
Vợ là cô Cám hám tiền ham chơi.
Vợ là con Phật, cháu Trời,
Rẽ mây rơi xuống làm người trần gian.
Vợ là...
Thế Lý
Vợ là
Về mặt triết học: Vợ là một thực thể độc lập tồn tại bên ngoài ta, ngoài ý muốn của ta.
![]() |
Vợ là người chẳng họ hàng
Thế mà giờ đẹp lại sang nhà mình.
Ngày đầu trông thật là xinh
Môi tươi mắt thắm đến đình cũng xiêu.
Vợ là đáng kính đáng yêu
Kính vợ đắc thọ là điều đương nhiên.
Nhớ vòng chung kết toàn cầu
Nhì trời nhất vợ đứng đầu bảng A.
Vợ là con của người ta
Mà sao tình lại thiết tha mặn nồng.
Vợ là chăn ấm mùa đông
Là dòng suối mát ngày không có tiền.
Vầng trăng vằng vặc trước hiên
Đinh ninh xin giữ lời nguyền nộp lương.
Vợ là két sắt, tủ tường
Muốn mở phải nhả lời thương ngọc ngà.
Vợ là một đôi thùng loa
Mỗi khi điên tiết cả nhà nổi giông.
Dáng như sư tử Hà Đông
Cha con lấm lét mà không dám cười.
Vợ là bình cũ lâu đời
Ai mua chẳng bán tứ thời nâng niu.
Vắng vợ có một buổi chiều
Cha con chống chếnh như diều đứt dây.
Uớc gì có vợ về ngay
Để mang tiếng hát làm say cả nhà!
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
THƠ TỨ TUYỆT
Thơ tứ tuyệt đã có từ lâu, trước khi có thơ thất ngôn và ngũ ngôn bát cú. Đầu tiên, thơ tứ tuyệt có nghĩa khác với nghĩa hiện tại: “tứ” là bốn và “tuyệt” có nghĩa là tuyệt diệu. Bài thơ chỉ có 4 câu mà diễn tả đầy đủ ý nghĩa của tác giả muốn trình bày nên người ta mới gọi 4 câu thơ đó là tứ tuyệt.
Tuy nhiên, sau khi có thơ thất ngôn và ngũ ngôn bát cú (luật thi) vào đời nhà Đường, thì thơ tứ tuyệt lại phải được làm theo quy tắc về niêm, vần, luật, đối của lối thơ thất ngôn hay ngũ ngôn bát cú. Vì vậy, sau nầy người ta giải thích chữ “tuyệt” là ngắt hay dứt. Nghĩa là thơ tứ tuyệt là do người ta làm theo cách ngắt lấy 4 câu trong bài bát cú để làm ra bài tứ tuyệt. Do đó niêm, vần, luật, đối của bài tứ tuyệt phải tùy theo cách ngắt từ bài bát cú mà thành.
Thơ tứ tuyệt có 2 thể là luật trắc vần bằng và luật bằng vần bằng.
Mỗi thể đều có một Bảng Luật coi như "công thức" căn bản mà người làm thơ phải tuân theo.
1. TỨ TUYỆT LUẬT TRẮC VẦN BẰNG (không đối)
Sau đây là Bảng Luật Thơ Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng:
BẢNG LUẬT:
T - T - B - B - T - T - B (vần)
B - B - T - T - T - B - B (vần)
B - B - T - T - B - B - T
T - T - B - B - T - T - B (vần)
Ghi chú: Đây là bản chính luật (sẽ có bảng luật bất luận sau). Mới đầu chúng ta nên cố gắng giữ theo chính luật để âm điệu bài thơ được hay. Tuy có bị gò bó nhưng sau nầy sẽ dễ cho chúng ta hơn (trước khó sau dễ).
Các chữ cuối của các câu 1-2-4 bắt buộc phải cùng vần với nhau.
Bài thơ thí dụ để minh họa:
1.
Thuở ấy tuy còn tuổi ấu thơ
Mà sao vẫn nhớ đến bây giờ
Xuân về nũng nịu đòi mua pháo
Để đón giao thừa thỏa ước mơ
Hoàng Thứ Lang
2.
Dõi mắt tìm ai tận cuối trời
Thu về chiếc lá ngậm ngùi rơi
Cay cay giọt lệ sầu chan chứa
Mộng ước tình ta đã rã rời
Hoàng Thứ Lang
3.
Một nửa vầng trăng rụng xuống cầu
Đôi mình cách trở bởi vì đâu
Canh tàn khắc lụn hồn tê tái
Đối bóng đèn khuya nuốt lệ sầu
Hoàng Thứ Lang
2. TỨ TUYỆT LUẬT BẰNG VẦN BẰNG (không đối)
Sau đây là Bảng Luật Thơ Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng:
BẢNG LUẬT:
B - B - T - T - T - B - B (vần)
T - T - B - B - T - T - B (vần)
T - T - B - B - B - T - T
B - B - T - T - T - B - B (vần)
Ghi chú: Đây là bản chính luật (sẽ có bảng luật bất luận sau). Mới đầu chúng ta nên cố gắng giữ theo chính luật để âm điệu bài thơ được hay. Tuy có bị gò bó nhưng sau nầy sẽ dễ cho chúng ta hơn (trước khó sau dễ).
Các chữ cuối của các câu 1-2-4 bắt buộc phải cùng vần với nhau.
Bài thơ thí dụ để minh họa:
1.
Đôi mình cách biển lại ngăn sông
Dõi mắt tìm nhau nhỏ lệ hồng
Ngắm ánh trăng thề thương kỷ niệm
Đêm trường thổn thức nhớ mênh mông
Hoàng Thứ Lang
2.
Đêm nghe tiếng gió nhớ miên man
Mộng ước tình ta đã lụn tàn
Thánh thót hiên ngoài mưa rả rích
Mi buồn lệ ứa mãi không tan
Hoàng Thứ Lang
3.
Rừng phong nhuộm tím cả khung trời
Lá úa lìa cành gió cuốn rơi
Lối cũ đường xưa em đếm bước
Miên man kỷ niệm đã xa vời
Hoàng Thứ Lang
Sau đây là Luật về Điệu thơ:
Điệu thơ là cách xếp đặt các tiếng trong câu thơ sao cho êm tai dễ đọc để bài thơ có âm hưởng du dương trầm bổng như nhạc điệu.
Điệu thơ gồm có 3 phần chính như sau:
1. Nhịp điệu: thơ ĐL nhịp chẵn, ngắt nhịp 2 hoặc 4 tiếng trọn nghĩa.
2. Âm điệu: nên làm theo chính luật để bài thơ có âm điệu êm tai trầm bổng.
3. Vần điệu: nên gieo vần ở cuối các câu 1-2-4-6-8 xen kẻ tiếng không có dấu và tiếng có dấu huyền để bài thơ khi đọc lên nghe du dương trầm bổng như điệu nhạc. Ngoài ra chúng ta nên cố gắng gieo vần chính vận. Sau nầy khi "nhuyễn" rồi chúng ta có thể theo thông vận và theo luật bất luận. Muốn cho bài thơ có âm điệu hay thì tiếng thứ 4 và tiếng thứ 7 của những câu luật trắc vần bằng không nên dùng trùng một thanh bằng. Nghĩa là nếu tiếng thứ 4 không dấu thì tiếng thứ 7 phải dấu huyền và ngược lại. Tuy nhiên nếu không tìm được từ nào khác có ý nghĩa hay hơn thì chúng ta dùng trùng cũng được mà vẫn không bị sai luật thơ.
Hoàng Thứ Lang